Thứ Hai, 18 tháng 7, 2016

Cuộc sống huyền bí của một geisha người Australia

Đối với nhiều người, geisha vẫn là hiện thân của sự tinh tế và ân sủng, là người gìn giữ loại hình nghệ thuật truyền thống Nhật Bản.
Xem thêm: Du lịch Nhật Bản qua các món ăn đặc sắc

Bốn geigha khoác lên mình những chiếc áo dày cộp, tối tăm và u buồn như mùa đông Nhật Bản, lặng lẽ đi xuyên qua khu rừng phủ đầy tuyết trắng. Điểm nhấn duy nhất của họ là cầm trên tay những chiếc ô đỏ rực rỡ như ánh bình minh, thêm chút màu vàng quý phái phía trên đỉnh - những màu sắc gợi lên sự bùng nổ và xóa tan đi cảm giác lạnh lẽo, đơn sắc của những ngày đầu năm.
 
Các geisha đi xuyên qua cánh rừng phủ đầy tuyết. Ảnh: CNN.

Những hình ảnh quen thuộc này thường gợi cho du khách nhớ lại khung cảnh diễm lệ, thơ mộng của thế kỷ 19 trong các bản in khắc gỗ của họa sĩ thiên tài Hokusai. Tuy nhiên ẩn dưới hình ảnh tưởng chừng như cổ điển này lại luôn là những câu chuyện gian nan của thời hiện đại.

Dẫn đầu tốp geisha đến Niseko - khu nghỉ mát trượt tuyết trên hòn đảo phía bắc Hokkaido - là Fiona Graham, một cô gái người Australia. Cô lần đầu đến xứ sở mặt trời mọc vào năm 15 tuổi và trở thành geisha người phương Tây đầu tiên tại Nhật vào năm 2007. Hiện Fiona sống và làm việc dưới cái tên Sayuki. Một phần công việc chính của cô là tổ chức các bữa tiệc chiêu đãi, để du khách có cơ hội được chiêm ngưỡng các geisha thực hành các kỹ năng phục vụ như rót trà, ca múa. Theo cô, đây là cách giúp mọi người có một cái nhìn cụ thể và hiểu biết về thế giới bí ẩn của các geisha - một nghề truyền thống và nổi tiếng, được giữ gìn qua 400 năm nay.

Fiona - geisha phương Tây đầu tiên tại Nhật Bản. Cô chỉ trích tác phẩm "Hồi ức của một geisha" vì nội dung thiên quá nhiều về sex, trong khi cuộc sống của các geisha trên thực tế đơn giản là những người nghệ sĩ thực thụ. Ảnh: CNN.

Sayuki lần đầu tiếp cận với sự quyến rũ của nghề geisha khi cô làm một bộ phim tài liệu về đề tài này. Khác với các đạo diễn khác, Sayuki không tìm hiểu về cuộc sống của các geisha dưới ống kính camera mà quyết định thâm nhập vào đó để hiểu rõ và truyền thống cũng như kỹ năng của họ.

Sayuki nhớ lại về thời điểm cô quyết định chuyển sang một hướng rẽ mới của cuộc đời: "Thế giới geisha thật sự rất xinh đẹp và lối sống của họ cũng rất tinh tế. Nhưng thực sự, để sống một cuộc sống tươi đẹp ở bất kỳ quốc gia nào cũng không phải là điều dễ dàng".

Để trở thành người phụ nữ phương Tây đầu tiên làm geisha, cô gái từng có bằng MBA tại Oxford đã phải trải qua một năm dài khắc nghiệt và vất vả để học tất cả nghi thức trà đạo. Cô được Yukiko - một cựu geisha oai nghiêm trong thập niên 1960 đồng thời là một geisha "mẹ"- ủng hộ, nhờ đó cô được chấp nhận vào vị trí thực tập sinh. Geisha "mẹ" là những người phụ nữ đã luống tuổi cai quản Okiya (hay nhà geisha) do riêng mình lập ra để quản lý người mới vào nghề. Cái tên Sayuki do Yukiko đặt cho Fiona.

Tai Kyoto, khu Gion là điểm đến thu hút du khách nức tiếng bởi là nơi trú ngụ của nhiều geisha. Ảnh: Japan-guide.

Dù là người nước ngoài, Sayuki cũng không có ngoại lệ khi học việc. Cô cũng phải làm người hầu tại những buổi tiệc được tổ chức trong trà quán để quan sát các geisha đàn chị. Đối với Sayuki, cái khó nhất là học cách ngồi xổm trên hai chân trong tư thế quỳ và tay nâng khay thức ăn nặng trịch trong nhiều giờ. Khi trở thành geisha chính thức, Sayuki được phát một bộ kimono màu xanh lơ tuyệt đẹp và một dải lưng thêu - tất cả trị giá đến 20.000 USD. Sau đó cô ngồi lên chiếc xe kéo và đi khắp khu vực geisha để chính thức giới thiệu bản thân với các chủ trà quán, cửa hiệu và đồng nghiệp. Lần xuất hiện đầu tiên như thế có tính nghi thức riêng tư và người nhà không được mời đến.

Sau nhiều năm ở Nhật Bản, Sayuki không còn mang dáng vẻ của một cô gái phương Tây năng động mà trở thành một người phụ nữ thanh lịch trong bộ kimono tơ màu hồng, thu hút sự chú ý của mọi người khi bước qua những con đường dẫn đến ngôi đền Sensoji ở Tokyo. Dân địa phương ở quận cổ Asakusa biết đó là một geisha thực thụ dù cô là một phụ nữ Australia cao ráo với đôi mắt xanh màu oliu. Từ kiểu búi tóc tròn cho đến đôi vớ tabi, từ đầu đến chân của Sayuki đều được trang điểm hoàn hảo đến mức mọi người trên đường phố đều phải thốt lên: Cô ấy đẹp quá!

Khi đi qua một đám đông du khách người Nhật mặc kimono cách điệu, Sayuki cảm thấy rất khó chịu. Cô cho biết: "Họ không mặc áo ngực. Và điều đó gây bực tức cho các geisha lớn tuổi. Hành vi khoe đường cong cơ thể bị coi là thô tục, rẻ tiền. Geisha là những nghệ sĩ làm việc toàn thời gian chứ không phải là đối tượng phục vụ nhu cầu tình dục".

Cô cũng hăng hái xua tan định kiến của nhiều du khách về việc geisha là những cô hầu bàn tô son trát phấn lòe loẹt, khúm núm trước đàn ông, và chứng minh họ là những nghệ sĩ thực thụ. Khách hàng nam giới ngày nay của họ bao gồm những chính khách, doanh nhân và những người nổi tiếng trong xã hội. Những người đàn ông giàu có này phải trả trung bình 400 USD cho một giờ được geisha phục vụ. Sayuki nói: "Geisha không bao giờ tiết lộ những gì mà họ nghe được từ khách hàng".

Nhưng đôi khi Sayuki thừa nhận cô cũng thích mặc lại quần áo theo phong cách phương Tây. Trong những lúc đó, khi lang thang qua các con đường ở quận Asakusa như một du khách bình thường, tình cờ có một người phụ nữ Nhật thân thiện chặn cô lại và chỉ cho cô thấy một geisha ngoại. "Những lúc đó, tôi chỉ vui vẻ mỉm cười. Tôi gìn giữ cuộc sống Sayuki cho riêng tôi". Cô gái trẻ cho biết chưa có ý định giải nghệ và muốn làm nghề này lâu nhất có thể.

Thông tin thêm:

Trong xã hội Nhật Bản trước thế chiến thứ hai, geisha được coi là biểu trưng của tài hoa, mực thước, mang lại niềm vui cho những quý ông bằng tiếng đàn, điệu múa, lối ăn nói hoạt bát, duyên dáng... Được yêu quý, trọng vọng, nhưng theo quy luật của nghề nghiệp, họ phải chôn chặt những khát khao thầm kín, ngay cả tình yêu trong thế giới đầy "chuẩn mực". Tất cả để tôn vinh nghề "làm đẹp cho đời chứ không phải kinh doanh thân xác".

Một số quận geisha ở Tokyo:

Kyoto được biết đến như "thánh địa" của các geisha, Tokyo cũng có các quận geisha của riêng mình, bao gồm Shinbashi, Asakusa,Yoshicho, Kagurazaka, Hachioji và Mukojima. Chúng được gọi chung làTokyo Roku hanamachi.

Các quán trà nơi geisha xuất hiện thường có quy định rất khắt khe. Một trong số đó chỉ có người Nhật mới được tham dự. Tuy nhiên nếu du khách biết tìm đúng người, bạn sẽ có cơ hội được tham gia vào các buổi tiệc thú vị này.

Mukojima là nơi du khách có thể tham gia vào các buổi biểu diễn có sự xuất hiện của geisha, và thưởng thức các món ăn truyền thống của Nhật Bản.

Quận geisha ở Kyoto:

Gion là nơi nổi tiếng nhất tại cố đô, tọa lạc gần đại lộ Shijo, nằm gần đền Yasaka về phía đông và sông Kamo về phía tây. Nơi đây có nhiều cửa hàng, quán ăn và các khu mua sắm, phù hợp với thị hiếu của du khách.

(Theo CNN)

Trò đùa với tử thần trên sàn đấu bò tót

Trước trận đấu, võ sĩ chính sẽ mặc trang phục truyền thống và làm lễ trong nhà thờ. Họ sẽ dùng màu vải đỏ trên người để dụ con bò và đâm cho tới khi nó chết rồi cắt tai ăn mừng.
Xem thêm: Những thành phố du lịch đáng sợ nhất thế giới

Alvaro Lorenzo, 20 tuổi, có vẻ ngoài thư sinh là một trong những võ sĩ đấu bò trẻ nhất Tây Ban Nha.

Để chuẩn bị sẵn sàng cho trận đấu diễn ra tại Aranjuez, gần thành phố Madrid, Lozenro cần sự giúp đỡ của các trợ lý. Họ là hai người đàn ông sẽ có mặt trong suốt trận đấu để cung cấp thêm dụng cụ khi Lozenro cần. 
Có vẻ ngoài của một thư sinh hơn là võ sĩ, Alvaro Lorenzo, 20 tuổi, đang chuẩn bị cho trận đấu bò đầy cam go.

Võ sĩ đấu chính gọi là Tosero sẽ mặc trang phục truyền thống của Tây Ban Nha để tham gia thi. Đó là một bộ đồ sặc sỡ, với màu đỏ chủ đạo, các chi tiết màu vàng đi kèm và một chiếc áo sơ mi trắng có thắt cà vạt. Thiết kế của bộ trang phục này giúp Tosero dễ dàng di chuyển khi chiến đấu. Trước đó, người trợ lý sẽ mặc đồ cho võ sĩ, quá trình chuẩn bị phải được thực hiện hoàn toàn trong im lặng.

Tosero sẽ tới nhà thờ nhỏ của trường đấu bò để cầu nguyện. Đây là thủ tục truyền thống họ phải làm trước thời khắc trận đấu diễn ra.

Mở màn trận đấu, con vật sẽ bị võ sĩ đâm một nhát, rồi phi nhiều cây giáo vào cơ thể khiến nó yếu dần đi. Võ sĩ tiếp tục đâm lao vào lưng bò để làm nó mất máu.

Vẻ mặt của võ sĩ trẻ tuổi trở nên căng thẳng trong suốt trận đấu bò.

Tiếp đến, Tosero sẽ gây sự chú ý nhằm nhử con vật về phía họ để đâm chết nó bằng nhát cuối cùng. Bước kết thúc màn trình diễn là cắt tai con bò. Họ coi đây như biểu tượng của thành công và thể hiện cho sự cổ vũ, hoan hô từ phía khán giả.

Nhiều nước trên thế giới đã có lệnh cấm đấu bò, đồng thời các tổ chức bảo vệ động vật như PETA luôn gay gắt lên tiếng, nhưng hàng năm vẫn có rất nhiều con bò bị giết vì môn thể thao đẫm máu này.

Số người xem cũng giảm đi nhanh chóng vì ý thức về việc có thể gia tăng bạo lực trong khi diễn ra trận đấu. Lượng võ sĩ tham gia đấu bò cũng giảm đáng kể, từ 3.300 người vào năm 2008 xuống còn dưới 500 người vào năm 2013. Hiện nay, con số này vẫn tiếp tục giảm mạnh.

Vì cách đối xử man rợ với các con vật mà sự phản đối môn đấu bò ngày càng tăng ở Tây Ban Nha. Hơn 2/3 người dân đất nước này đã lên tiếng chống lại môn thể thao truyền thống.

(Theo VnExpress)

Chủ Nhật, 17 tháng 7, 2016

Tâm sự người làm nghề kiềm chế bò tót ở Tây Ban Nha

"Công việc của tôi dành cho người liều lĩnh, đòi hỏi phải luôn tỉnh táo và cẩn trọng, bởi chỉ một phút lơ là thôi, bạn có thể phải trả giá bằng chính mạng sống của mình”, một pastores chia sẻ.Xem thêm: 5 điểm đến chụp ảnh “tự sướng” nguy hiểm nhất thế giới

“Pastores” là từ để chỉ những người làm nhiệm vụ giữ an toàn, kiềm chế và kiểm soát bò tót trong lễ hội San Fermín, được biết đến như lễ hội bò rượt nổi tiếng nhất thế giới, tổ chức tại thành phố Pamplona của Tây Ban Nha. Họ mặc đồng phục màu xanh lá cây, cầm theo những cây gậy dài và theo sau đàn bò trong lễ hội.

Lễ hội San Fermín thường diễn ra vào tháng 7 hàng năm và kéo dài liên tục suốt 7 ngày. Những con bò đực được thả tự do trên đường và dòng người đông nghịt sẽ đuổi theo hoặc chạy trốn để không bị bò tấn công. Chính vì thế, vai trò của các Pastores trở nên rất quan trọng. Họ phải kiềm chế những con bò, làm sao cho chúng liên tục tiến về phía trước, nhưng cũng đồng thời phải bảo vệ được đám đông khỏi những con bò hung hãn.
 
Miguel Reta với 18 năm trong nghề kiềm chế bò tót trong lễ hội San Fermín. Ảnh: Pamplona balconies.

Miguel Reta làm nghề này đã 18 năm. Hồi bé, anh là người rất sợ bò tót và thường không bao giờ dám lại gần. “Nhưng tôi biết ơn mẹ mình, bởi bà đã dạy cho tôi về lòng dũng cảm và tôn trọng truyền thống. Ông tôi là người chăn nuôi gia súc nên tôi có cơ hội tiếp xúc với chúng từ khi còn rất nhỏ, Miguel nhớ lại. “Rồi một lần tình cờ, tôi được mời vào vị trí pastores do người được chỉ định ban đầu bị gãy tay. Công việc đến với tôi như thế và tôi không rõ đã yêu thích nghề này từ khi nào nữa”.

Pastores làm nhiệm vụ đảm bảo an toàn và kiềm chế lũ bò trong lễ hội. Ảnh: Cyberspace.

Miguel và đồng nghiệp có thể dễ dàng được nhận ra nhờ đồng phục xanh và cây gậy dài. “Mục đích của cây gậy là để bảo vệ đàn bò và giữ cho chúng luôn chạy về phía trước. Đôi khi nó còn sử dụng để đánh vào đám đông đang cố gắng kích động lũ bò hoặc tìm cách chạm vào chúng. Hành động của họ có thể khiến lũ bò phát điên và gây ra nguy hiểm”, Miguel nói. “Nhiều khi đám đông khán giả không ý thức được về hành động của mình và những rủi ro đi kèm theo nó. Trường hợp này, tôi thường phải cảnh báo họ cần hết sức cẩn thận, giữ tỉnh táo và quan trọng hơn là có đủ sức khỏe để tham dự màn rượt đuổi”.

Trên thực tế, San Fermin là lễ hội gây nhiều tranh cãi do mức độ nguy hiểm trong màn bò rượt. Nhiều người đã chết và hàng trăm người bị thương trong lễ hội, nhưng bất chấp những lời cảnh báo, dòng người đổ về Pamplona vẫn không hề giảm. Nói về vấn đề này, Miguel cho rằng đôi khi sự phấn khích sẽ khiến du khách quên mất họ đang phải đối diện với những con bò đực mạnh mẽ và không thể đoán trước.

"Công việc của tôi dành cho người liều lĩnh, đòi hỏi phải luôn tỉnh táo và cẩn trọng trong mọi tình huống, bởi chỉ một phút lơ là thôi, bạn có thể sẽ phải trả giá bằng chính mạng sống của mình”, Miguel chia sẻ.

Lễ hội San Fermín gồm có 2 phần: phần bò rượt và cuộc thi đấu bò tót. Những con bò sau khi kiệt sức sẽ bị tra tấn đến chết và giết thịt. Lễ hội bị những người đấu tranh vì quyền động vật kịch liệt phản đối nhưng đến nay vẫn diễn ra và thu hút lượng lớn du khách đến du lịch Tây Ban Nha.
 
(Theo VnExpress)

Bài đăng phổ biến